Câu hỏi:Thưa luật sư, vợ chồng tôi kết hôn từ năm 1997, nhưng không đăng kí kết hôn. Năm 2000, bố mẹ tôi cho tôi một mảnh đất cạnh nhà để hai vợ chồng ra ở riêng. Sau đó hai vợ chồng đã bán mảnh đất đó được 12 triệu, mua một mảnh đất ở nơi khác để tiện làm ăn. Tiền mua đất là 6 triệu, còn 6 triệu tôi để mua gỗ dựng nhà. Năm 2006 tôi bị bắt, và phải ngồi tù 70 tháng. Năm 2013 tôi trở về thì phát hiện vợ tôi ngoại tình, đòi ly hôn với tôi và chia tài sản là mảnh đất 198m2 cùng ngôi nhà sàn dựng trên đất. Xin hỏi luật sư trường hợp của tôi chia tài sản thế nào?
Luật sư trả lời:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến bộ phận Luật sư tư vấn của Luật Hoàng Phú. Luật sư chúng tôi xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
VỀ VẤN ĐỀ TÌNH CẢM
Như bạn trình bày, vợ chồng bạn kết hôn từ năm 1997 nhưng không có đi đăng kí kết hôn, mà chung sống như vợ chồng từ năm 1997 đến nay.
Xét thấy:
Căn cứ Căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định việc đăng kí kết hôn như sau:
“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
2. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.”
Ngoài ra, theo tinh thần của Nghị quyết số 35/2000/QH thì nếu:
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình;
- Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
- Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, hai vợ chồng bạn không có đăng ký kết hôn, cũng không chủ động đi đăng kí kết hôn mà chung sống như vợ chồng từ năm 1997 đến nay. Trường hợp của hai bạn pháp luật không công nhận đó là quan hệ hôn nhân thực tế, do vậy quan hệ của hai bạn không được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình.
VỀ TÀI SẢN CHUNG
Hiện tại tài sản hai bên đang tranh chấp là thửa đất 198m2 và ngôi nhà sàn xây dựng trên đất.
Căn cứ Điều 16- Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định:
" Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập."
Do hai bạn không được công nhận là quan hệ vợ chồng, bởi vậy tài sản chung của hai bạn không phải là tài sản chung hợp nhất mà là tài sản chung theo phần được quy định bởi BLDS 2015.
Như bạn đã trình bày, thứ nhất về nguồn gốc của thửa đất 198m2 là từ việc bố mẹ cho bạn một thửa đất cạnh nhà, sau đó bạn bán đất đó được 12 triệu để mua thửa đất 198m2 với giá 6 triệu, còn lại 6 triệu bạn mua gỗ để dựng nhà.
Theo quy định tại Điều 209 - BLDS 2015 về Sở hữu chung theo phần:
1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.
2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác."
Căn cứ Điều 219. Chia tài sản thuộc sở hữu chung
1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán."
Như vậy, theo quy định pháp luật nêu trên, bạn cần chứng minh phần đóng góp của mình đối với khối tài sản trên, tỉ lệ chia sẽ căn cứ vào việc đóng góp nhiều hay ít của mỗi bên. Trường hợp của bạn thì tiền mua đất và mua gỗ xây nhà là được bố mẹ bạn cho riêng bạn (qua việc bán thửa đất được cho). Đây có thể xem xét là tài sản riêng của bạn. Còn tiền xây dựng ngôi nhà bạn cần chứng minh phần đóng góp của vợ bạn là bao nhiêu để xác định tỉ lệ đóng góp của bạn và vợ bạn.
CÔNG TY LUẬT TNHH HOÀNG PHÚ
HOTLINE TƯ VẤN: 0969 603 030
Địa chỉ: Phòng 501 – Tầng 05 - 276 Đường Láng – Đống Đa – Hà Nội
Email: tuvanluathoangphu@gmail.com.
Với đội ngũ nhiệt huyết, yêu nghề, tận tâm luôn coi trọng các nguyên tắc đạo đức trong tham vấn tâm lí, chúng tôi hi vọng sẽ đem đến cho bạn chất lượng dịch vụ tốt nhất có thể.
Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và sử dụng dịch vụ của Luật Hoàng Phú!